“Một thời đại trong thi ca” của Hoài Thanh được ví như một bức tranh sống động, khắc họa sâu sắc cuộc sống và tình cảm của người Việt Nam trong giai đoạn lịch sử biến động. Hãy cùng khám phá tác phẩm này qua soạn bài một thời đại trong thi ca được kienthucthpt biên soạn!
* Trước khi đọc – Soạn bài Một thời đại trong thi ca
Câu hỏi 1 trang 85 SGK Ngữ văn 11 Tập 1: Có bao giờ bạn băn khoăn khi phải phân biệt cái mới với cái cũ. Hãy chia sẻ trải nghiệm của mình.
Trả lời:
Đã có lúc tôi trăn trở khi phải phân biệt giữa cái mới và cái cũ. Cái mới thường được ứng dụng nhiều trong cuộc sống hàng ngày, trong khi cái cũ được giữ lại như những kỷ niệm đã qua. Thông thường, cái mới được phát triển dựa trên nền tảng của cái cũ.
Câu hỏi 2 trang 85 SGK Ngữ văn 11 Tập 1: Bạn hãy lựa chọn và so sánh một bài thơ thuộc phong trào Thơ mới với một bài thơ thuộc thời kì trung đại để tìm ra những điểm khác biệt.
Trả lời:
Chọn bài thơ trung đại “Bánh trôi nước” của Hồ Xuân Hương và bài thơ mới “Quê hương” của Tế Hanh.
Về nội dung:
– Thơ trung đại chủ yếu thể hiện tâm trạng và nỗi lòng của con người trong bối cảnh xã hội, mang tính chất giáo huấn rõ rệt.
– Thơ mới có cái nhìn mở rộng và phóng khoáng hơn, không bị ràng buộc bởi lễ nghi và lễ giáo như trong văn học trung đại. Thơ mới tập trung vào việc thể hiện cái tôi cá nhân trước con người và thế giới, một cái tôi đầy đam mê và cảm xúc với thiên nhiên và con người, nhưng đôi khi cũng không tránh khỏi cảm giác cô đơn, lạc lõng giữa cuộc đời và không gian vô tận. Tác giả trong thơ mới có thể tự do bộc lộ cái tôi cá nhân của mình.
Về hình thức:
– Thơ trung đại tuân theo những quy tắc nghiêm ngặt về niêm luật và hình ảnh thường mang tính ước lệ, công thức. Hệ thống ước lệ này rất phức tạp và chặt chẽ. Ví dụ: Bài thơ “Bánh trôi nước” của Hồ Xuân Hương với thể thơ thất ngôn tứ tuyệt. Bài thơ tuy ngắn gọn với chỉ 4 câu, nhưng đã khắc họa rõ nét số phận và phẩm chất của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa.
– Thơ mới không bị ràng buộc bởi hệ thống ước lệ phức tạp, thoát khỏi những quy tắc cứng nhắc trong cách diễn đạt, thường sử dụng thể thơ tự do (về số tiếng, số dòng, vần, nhịp…). Ngôn ngữ trong thơ mới gần gũi với lời nói hàng ngày, hình ảnh sinh động, gắn liền với đời sống.
* Đọc văn bản – Soạn bài Một thời đại trong thi ca
Gợi ý trả lời câu hỏi trong khi đọc
1. Chú ý vấn đề được nêu để bàn luận.
Vấn đề cần thảo luận là: Hãy tìm ra điều mà chúng ta coi là quan trọng hơn, đó là tinh thần của thơ mới.
2. Cái khó khi phân biệt rạch ròi thơ mới – thơ cũ là gì?
Không có sự phân định rõ ràng giữa thơ mới và thơ cũ. Trong cả hai thể loại này đều tồn tại những bài thơ hay và dở, với số lượng bài thơ hay ít hơn và bài thơ dở nhiều hơn. Đây chính là điều khó khăn và phức tạp nhất.
3. Tiêu chí nào được nêu để phân biệt thơ mới – thơ cũ?
Tiêu chí để phân biệt thơ mới và thơ cũ là cần nhìn vào bức tranh tổng thể.
4. Chú ý cách lập luận của tác giả.
– Luận điểm: Sự khác biệt giữa cái tôi cá nhân và cái ta tập thể trong thơ mới và thơ cũ.
– Lý lẽ: Trước đây là thời đại của chữ “ta,” còn bây giờ là thời đại của chữ “tôi.” Dù có điểm tương đồng, nhưng vẫn có sự khác biệt rõ rệt như chữ “tôi” khác với chữ “ta.” Chúng ta cần khám phá những khác biệt đó.
=> Đặt vấn đề một cách rõ ràng và súc tích. Câu văn nghị luận giàu chất thơ, mang lại cảm xúc và tạo hứng thú cho người đọc.
5. Tình trạng “cái tôi” khi mới xuất hiện trong văn học Việt Nam.
– Cái “tôi” ban đầu xuất hiện với sự bỡ ngỡ vì nó mang theo quan niệm cá nhân.
– Khi cái “tôi” bước vào thi đàn Việt Nam, nhiều người nhìn nó với ánh mắt khó chịu. Trước đây, cái “tôi” đã gây phản cảm khi đi kèm với những từ như anh, bác, ông. Nay nó xuất hiện một mình lại càng khiến nhiều người khó chịu hơn.
6. Những biểu hiện khác nhau của “cái tôi” trong Thơ mới.
– Dần dần, cái “tôi” đã mất đi vẻ bỡ ngỡ ban đầu. Nó trở nên quen thuộc với nhiều người, thậm chí người ta còn cảm thấy nó đáng thương. Và thật sự, cái “tôi” cũng thật đáng thương.
– Tâm hồn thi nhân chỉ vừa mới định hình trong khuôn khổ của chữ “tôi”.
– Cuộc đời chúng ta đã bị chi phối bởi chữ “tôi”. Khi mất đi sự bao quát, ta lại đi tìm chiều sâu.
– Sự xuất hiện của chữ “tôi” đã làm cho thơ Việt Nam trở nên buồn bã và đầy cảm xúc, mang đến lòng tự tôn, nhưng cũng khiến ta mất đi sự bình yên của thời kỳ trước.
7. Ý nghĩa của “cái tôi” Thơ mới.
Các nhà thơ lãng mạn thời đó, giống như những người thanh niên cùng thời, đã giải tỏa bi kịch cuộc đời mình bằng cách gửi gắm tất cả vào tiếng Việt. Họ yêu sâu sắc thứ tiếng đã đồng hành cùng cha ông qua nhiều thế kỷ, chia sẻ bao nỗi buồn vui. Họ đã gói ghém tình yêu quê hương trong tình yêu dành cho tiếng Việt. Bởi họ tin rằng “Tiếng Việt là tấm lụa quý để lưu giữ linh hồn của các thế hệ đã qua,” và họ cũng đặt niềm tin vào câu nói triết lý “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; tiếng ta còn, nước ta còn.”
8. Chú ý cách sử dụng biện pháp tu từ trong lời văn nghị luận.
Việc sử dụng biện pháp điệp ngữ và so sánh đối chiếu ở mức độ phù hợp đã mang lại hiệu quả cao.
=> Đây là cách viết văn nghị luận văn chương vừa dễ hiểu, lại rất tài hoa, tinh tế và cuốn hút.
* Sau khi đọc – Soạn bài Một thời đại trong thi ca
Nội dung chính:
Văn bản đã đặt ra vấn đề quan trọng là tìm kiếm tinh thần của Thơ mới. Tác giả đã đề xuất nguyên tắc để nhận diện tinh thần Thơ mới: không dựa vào những yếu tố nhỏ lẻ hay những bài thơ dở, mà cần phải nhìn vào tổng thể và những bài thơ hay.
Tinh thần Thơ mới được xác định qua sự đối lập giữa chữ “tôi” trong Thơ mới và chữ “ta” trong thơ cũ, đồng thời nêu bật bi kịch của cái Tôi trong Thơ mới. Cuối cùng, văn bản chỉ ra sự vận động của cái “tôi” và cách nó giải quyết bi kịch thời đại bằng cách gửi gắm tất cả vào tình yêu đối với tiếng Việt.
Gợi ý trả lời câu hỏi sau khi đọc
Câu 1 trang 89 SGK Ngữ văn 11 Tập 1: Để làm sáng tỏ luận đề “tinh thần Thơ mới”, Hoài Thanh đã nêu lên những luận điểm nào? Chỉ ra mối quan hệ giữa các luận điểm đó.
Trả lời:
Các luận điểm làm rõ luận đề “tinh thần Thơ mới” gồm:
– Nguyên tắc xác định tinh thần Thơ mới.
– Tinh thần Thơ mới được thể hiện qua chữ “tôi”.
– Sự vận động của Thơ mới xoay quanh cái tôi và bi kịch của nó.
Mối quan hệ giữa các luận điểm được sắp xếp theo trình tự logic: từ việc nêu vấn đề, đến giải quyết vấn đề và cuối cùng là rút ra kết luận.
Câu 2 trang 89 SGK Ngữ văn 11 Tập 1: Ở phần đầu văn bản, tác giả đưa ra các tiêu chí so sánh thơ cũ – thơ mới nhằm mục đích gì?
Trả lời:
Trong phần đầu của văn bản, tác giả đã đề xuất các tiêu chí để so sánh giữa thơ cũ và thơ mới, nhằm làm nổi bật cả sự khó khăn lẫn niềm khao khát của những người yêu văn chương, quyết tâm tìm ra tinh thần của Thơ mới.
Câu 3 trang 89 SGK Ngữ văn 11 Tập 1: Hãy nhận xét cách diễn giải về “cái tôi” của Hoài Thanh trong văn bản (đặc biệt chú ý đoạn: “Đời chúng ta … cùng Huy Cận”).
Trả lời:
Cách Hoài Thanh giải thích về “cái tôi” trong văn bản (đặc biệt chú ý đoạn: “Đời chúng ta … cùng Huy Cận”):
- Các nhà thơ mới đã lẩn tránh và thoát ly khỏi hiện thực.
- Chủ đề được phát triển thành hai phần chính: khái quát về hướng tìm tòi và hệ quả chung.
- Khi điểm qua các gương mặt tiêu biểu và những lĩnh vực riêng của các nhà thơ mới, chúng ta có thể thấy sự đa dạng và phân hóa, cùng với sự bế tắc trong ý thức cá nhân.
>> Xem thêm: Soạn bài Cầu hiền chiếu
Câu 4 trang 89 SGK Ngữ văn 11 Tập 1: Phân tích cách sử dụng bằng chứng trong nghệ thuật lập luận được Hoài Thanh thể hiện qua văn bản.
Trả lời:
Bằng chứng trong văn bản:
- Nhưng chính Xuân Diệu đã viết…
- Một nhà thơ cũ miêu tả cảnh thu lại có những câu thơ đầy tinh nghịch và lả lơi…
- Đừng tìm ở họ cái khí phách ngang tàng của một thi hào đời xưa như Lý Thái Bạch…
- Không biết trong khi than thở như vậy, Xuân Diệu…
- Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ…
- …
=> Hoài Thanh đã sử dụng những dẫn chứng cụ thể từ các nhà thơ mới, phong phú và đa dạng, giúp văn bản thêm phần thuyết phục.
- Khi tìm kiếm sự đổi mới trong thơ mới, tác giả nhìn nhận vấn đề trong bối cảnh thời đại và tâm lý của các thi nhân đương thời, một cách thấu đáo và sâu sắc.
- Tác giả có cái nhìn toàn diện về “cái tôi” và “cái ta,” đồng thời so sánh giữa các câu thơ và các nhà thơ cũ, mới trong bối cảnh lịch sử.
Câu 5 trang 89 SGK Ngữ văn 11 Tập 1: Hãy chỉ ra và phân tích giá trị đặc sắc của những biện pháp tu từ được tác giả sử dụng ở cuối văn bản.
Trả lời:
Biện pháp nghệ thuật:
- Điệp ngữ: “Chưa bao giờ như bây giờ”
- So sánh: “Tinh thần nòi giống như các thể thơ xưa, chỉ biến thiên chứ không thể bị tiêu diệt.”
Giá trị đặc sắc: Những biện pháp nghệ thuật này làm cho lời văn nghị luận trở nên sống động và cuốn hút hơn. Chúng giúp người đọc thấu hiểu tinh thần Thơ mới cũng như tình cảm của tác giả, thể hiện qua tình yêu quê hương được gửi gắm trong tình yêu tiếng Việt, lấy tinh thần nòi giống và quá khứ làm chỗ dựa tinh thần.
Câu 6 trang 89 SGK Ngữ văn 11 Tập 1: Qua văn bản, bạn hiểu được những gì về phong trào Thơ mới và lối văn phê bình của Hoài Thanh.
Trả lời:
– Hiểu biết về phong trào Thơ mới: Theo Hoài Thanh, khái niệm Thơ mới cần được hiểu là mới cả về nội dung lẫn hình thức, và trước hết là về nội dung. Ông cho rằng thơ ca Việt Nam từ thời kỳ cổ điển sang hiện đại là một quá trình chuyển từ chữ “ta” sang chữ “tôi” (trong Một thời đại trong thi ca).
Ban đầu, Thơ mới được hiểu là thơ tự do, nhưng khi đạt đến đỉnh cao phát triển, khái niệm Thơ mới đã được bổ sung và hoàn thiện. Thơ mới là loại thơ phản ánh cái tôi cá nhân của người nghệ sĩ, với tất cả các cung bậc phong phú và phức tạp, được thể hiện qua hình thức nghệ thuật có nhiều đổi mới và sáng tạo, nhằm phát huy cá tính độc đáo của mỗi nghệ sĩ.
– Lối văn phê bình của Hoài Thanh:
- Đặt vấn đề rõ ràng và súc tích.
- Dẫn dắt vấn đề một cách khoa học, khéo léo và dễ hiểu, đảm bảo sự liền mạch trong hệ thống luận điểm.
- Câu văn nghị luận giàu chất thơ, gợi cảm xúc và tạo hứng thú cho người đọc.
- Nghệ thuật lập luận chặt chẽ, thấu đáo và mang tính khoa học.
>> Xem thêm: Soạn bài Tôi có một ước mơ
* Kết nối đọc – viết
Bài tập trang 89 SGK Ngữ văn 11 Tập 1: Hoài Thanh cho rằng: Các nhà thơ của phong trào Thơ mới đã “dồn tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt”. Viết đoạn văn (khoảng 150 chữ) trình bày suy nghĩ của bạn về ý kiến này.
Đoạn văn tham khảo
Hoài Thanh nhận xét rằng các nhà thơ trong phong trào Thơ mới đã “dồn tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt.” Trong bối cảnh đất nước thời bấy giờ, có nhiều cách để thể hiện lòng yêu nước. Các nhà Thơ mới đã chọn cách gửi gắm lòng yêu nước và tình yêu dân tộc qua tình yêu tiếng Việt, bởi họ tin rằng tiếng Việt đã thấm đẫm hồn dân tộc qua nhiều thế hệ.
Vận mệnh của dân tộc đã gắn liền với vận mệnh của tiếng Việt. Họ sử dụng tiếng nói dân tộc để sáng tác thơ, giữ gìn và phát triển những thể thơ mang hồn cốt dân tộc. Qua thơ, họ ca ngợi thiên nhiên, đất nước và bày tỏ nỗi buồn mất nước. Các nhà Thơ mới đã làm phong phú, trong sáng và hiện đại hóa ngôn từ tiếng Việt.
Trong khi văn học trung đại chủ yếu sáng tác bằng chữ Hán và chữ Nôm với thể thơ Đường luật, các nhà Thơ mới lại sáng tác bằng tiếng Việt, chữ quốc ngữ, tôn vinh các thể thơ truyền thống như lục bát, bốn chữ, năm chữ…
Họ coi tiếng nói của cha ông là gia tài quý giá, mang hồn thiêng dân tộc, và do đó đã chăm chút từng từ ngữ, hình ảnh. Tình yêu tiếng Việt, yêu nghệ thuật thơ ca và bản sắc văn hóa dân tộc của các nhà Thơ mới thể hiện rất phong phú và sâu sắc, là một biểu hiện tinh tế của tình yêu quê hương đất nước.
Bài viết trên đã cung cấp cho các bạn toàn bộ kiến thức về một thời đại trong thi ca kết nối tri thức. Hy vọng có thể giúp các bạn hiểu rõ hơn về ý nghĩa mà tác phẩm tuyệt vời này mang lại. Để tham khảo thêm những bài học và các tác phẩm khác trong chương trình học, các bạn hãy truy cập Ngữ Văn 11 thường xuyên nhé.
Tác giả:
thaovy
Chào các bạn! Mình là Thảo Vy - Sinh viên K28 - Đại học Sư phạm Hà Nội. Với nhiều năm kinh nghiệm giảng dạy, chuyên môn vững vàng, phương pháp sư phạm hiện đại và nhiệt huyết làm nghề hy vọng sẽ giúp các em đạt kết quả tốt nhất.