Tác giả Xuân Diệu được biết đến như là “ông hoàng thơ tình”, với những tác phẩm mang đậm khát vọng mãnh liệt về tình yêu và cuộc sống. Phong cách sáng tác độc đáo, không giống ai của ông đã thổi một luồng gió mới vào thơ ca Việt Nam và được độc giả nhiệt liệt đón nhận. Hãy cùng kienthucthpt.com tìm hiểu chi tiết về cuộc đời và sự nghiệp của nhà thơ Xuân Diệu qua những thông tin dưới đây.
Xuân Diệu là ai? Giới thiệu về tác giả Xuân Diệu
Xuân Diệu, tên đầy đủ là Ngô Xuân Diệu, sinh ngày 2 tháng 2 năm 1916 tại quê mẹ Tuy Phước, tỉnh Bình Định, mặc dù quê cha ở huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Xuân Diệu sống ở Tuy Phước từ nhỏ cho đến khi ông 11 tuổi.
Sinh ra trong một gia đình hiếu học, cha ông, Ngô Xuân Thọ, đã đỗ tú tài Hán học, giúp sự nghiệp học hành của Xuân Diệu được định hướng và phát triển một cách bài bản. Cha ông là thầy giáo, nên từ nhỏ Xuân Diệu đã được học chữ Nho và chữ Quốc ngữ. Sau đó, ông tiếp tục học tại nhiều trường danh tiếng như trường Bưởi (Hà Nội) và trường Khải Định (Huế).
Năm 1927, Xuân Diệu đến Quy Nhơn học. Từ năm 1936 đến 1937, ông ra Huế học và sau đó đỗ tú tài. Năm 1937, Xuân Diệu ra Hà Nội học tại trường Luật và viết báo, trở thành thành viên của nhóm Tự Lực Văn Đoàn, một trong những tổ chức nghệ sĩ nổi tiếng ở miền Bắc thời bấy giờ.
Sau khi tốt nghiệp tú tài và cử nhân Luật, năm 1943, Xuân Diệu đỗ tham tá Thương chính và làm việc tại Mỹ Tho (nay là tỉnh Tiền Giang). Ngoài công việc viên chức nhà nước, ông còn dạy học tư. Một năm sau, ông quyết định thôi việc và chuyển ra Hà Nội sinh sống bằng nghề viết văn.
Năm 1944, Xuân Diệu tham gia tích cực vào các phong trào cách mạng phục vụ kháng chiến. Ban đầu, ông tham gia phong trào Việt Minh, sau đó trở thành Đảng viên Đảng Cộng sản. Khi cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Xuân Diệu tiếp tục hoạt động trong Hội Văn hóa Cứu quốc và làm thư ký tạp chí Tiền Phong của Hội.
Năm 1948, Xuân Diệu được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Hội Văn nghệ Việt Nam. Từ năm 1957 đến 1985, ông làm Ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam các khóa 1, 2, và 3. Năm 1983, ông được Viện Hàn lâm Nghệ thuật Cộng hòa Dân chủ Đức bầu làm Viện sĩ thông tấn.
Ngày 18 tháng 12 năm 1985, Xuân Diệu qua đời, hưởng thọ 69 tuổi. Năm 1996, Xuân Diệu được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I về văn học nghệ thuật. Tên ông đã được đặt cho nhiều tuyến đường và trường học ở nhiều tỉnh thành trên cả nước để vinh danh và tưởng nhớ.
Sự nghiệp sáng tác của Xuân Diệu
Phong cách sáng tác của Xuân Diệu
Tác giả Xuân Diệu là một trong những nhà thơ lớn của phong trào Thơ mới ở Việt Nam, với những tác phẩm mang nhiều màu sắc khác nhau, để lại dấu ấn sâu đậm cho độc giả. Ông được mệnh danh là “ông hoàng của tình yêu” với phong cách tràn đầy sức sống và tình yêu mãnh liệt.
Là nhà thơ tiêu biểu nhất trong các nhà thơ mới, thơ của Xuân Diệu luôn mang đến sự tươi mới và khác biệt, sử dụng ngôn từ sáng tạo thu hút nhiều độc giả. Những ai đã từng đọc thơ Xuân Diệu chắc chắn sẽ khó quên được! Ông là một nghệ sĩ có tinh thần lao động nghệ thuật bền bỉ, sáng tác không chỉ để khẳng định tài năng mà còn là cách để giao cảm với cuộc đời, khẳng định sự hiện diện của mình.
Vì lẽ đó, Xuân Diệu còn được biết đến như là nhà thơ của mùa xuân, tình yêu và tuổi trẻ. Thơ ông luôn thể hiện lòng yêu đời, ham sống mãnh liệt và khát khao chiếm lĩnh, tận hưởng những giá trị đẹp đẽ của cuộc sống.
Sau cách mạng tháng Tám, Xuân Diệu chuyển hướng phong cách sáng tác, tập trung vào đời sống thực tế và mang đậm tính thời sự. Với ý thức trách nhiệm của một công dân, ông miệt mài sáng tác những bài thơ chào đón cách mạng, thể hiện tình yêu đời bằng những vần thơ nhiệt huyết.
Những tác phẩm của Xuân Diệu
Sự nghiệp sáng tác của Xuân Diệu rất đa dạng và phong phú, bao gồm thơ, văn xuôi, viết báo, tiểu luận phê bình và nghiên cứu văn học.
- Thơ: Xuân Diệu đã sáng tác hơn 450 bài thơ, mỗi bài đều mang đến một sức sống mới và cảm xúc mới cho thơ ca đương đại. Những tác phẩm tiêu biểu bao gồm “Thơ thơ”,”Gửi hương cho gió”, “Một khối hồng”,”Thanh ca”,”Tôi giàu đôi mắt”,”Riêng chung”,”Mẹ con”,”Ngôi sao”,”Sáng” và “Dưới sao vàng.”
- Văn xuôi: Một số tác phẩm văn xuôi của ông gồm “Ký sự thăm nước Hung”,”Triều lên”,”Trường ca”,”Phấn thông vàng”,”Việt Nam trở dạ” và “Việt Nam nghìn dặm.”
- Tiểu luận phê bình: Xuân Diệu đã viết nhiều tiểu luận phê bình như “Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ”,”Đi trên đường lớn”,”Và cây đời mãi xanh tươi” và “Mài sắt nên kim.”
- Dịch thơ: Ông cũng tham gia dịch thuật với các tác phẩm như “Thi hào Nadim Hitmet”,”Vây giữa tình yêu” và “Những nhà thơ Bungari.”
Trong hơn nửa thế kỷ lao động nghệ thuật, Xuân Diệu đã để lại một sự nghiệp văn học xuất sắc. Dù ông có tài năng ở nhiều lĩnh vực và đóng góp lớn lao, khi nhắc đến Xuân Diệu, người ta sẽ nghĩ ngay đến một nhà thơ, một cây đại thụ của thơ ca Việt Nam.
Vội vàng – Bài thơ nổi tiếng nhất của tác giả Xuân Diệu
“Vội vàng” là bài thơ tiêu biểu nhất của tác giả Xuân Diệu, được trích từ tập “Thơ thơ” (1938) và được giới thiệu trong chương trình Ngữ văn lớp 12. Bài thơ mang âm điệu vội vã, giục giã với tâm trạng lo lắng, khắc khoải trước sự trôi chảy của thời gian. Thời gian làm cho mọi thứ trở nên hữu hạn, và bài thơ như một lời thức tỉnh đến các bạn trẻ, khuyên họ biết trân trọng thời gian và sống một cuộc đời thật ý nghĩa.
Với Xuân Diệu, làm thơ là thả một chiếc lá thơ vào dòng chảy thời gian để bất tử hóa bản thân, bởi thơ có năng lực vượt qua sự hữu hạn của thời gian. Thơ là sản phẩm cá nhân chứa đựng cảm xúc, nên “ý văn xô đẩy, khuôn khổ câu văn cũng lung lay” (Hoài Thanh). Thiên nhiên trong thơ Xuân Diệu không được cảm nhận bằng ánh mắt phong tình mà được tái hiện bằng bút pháp mỹ nhân hóa. Ông sử dụng cả 5 giác quan để khám phá và miêu tả sự vật một cách tinh tế nhất. Cách đặt câu, dùng từ trong thơ Xuân Diệu rất mới mẻ, rất Tây!
>>Xem thêm: Mở bài Hồn Trương Ba Da Hàng Thịt
Những nhận định về nhà thơ Xuân Diệu
– Nguyễn Tuân đã từng nhận xét: “Xuân Diệu mới nhất trong các nhà thơ mới”.
– Chế Lan Viên đã từng nhận định: “Xuân Diệu là cả một viện nghiên cứu văn học trong anh”.
– Hoàng Trung Thông từng phát biểu: “Đau lòng thay! Mất một nhà thơ lớn, mất một người bạn và về thơ anh là bậc đàn anh của tôi”.
– Thế Lữ cũng từng đánh giá: “Xuân Diệu là một người của đời, một người ở giữa loài người. Lầu thơ của ông xây dựng trên đất của một tấm lòng trần gian”.
– Tố Hữu từng chia sẻ: “Xuân Diệu là một nhà thơ lớn, đặc sắc và độc đáo của nền thơ hiện đại Việt Nam… cho tới nay và trong tương lai gần, liệu có ai vượt qua Xuân Diệu trong lĩnh vực thơ tình? Và không ai có thể thay thế được Xuân Diệu”.
– Hoài Thanh từng nhận xét: “Xuân Diệu mới nhất trong các nhà thơ mới – nên chỉ những người trẻ mới thích đọc Xuân Diệu, mà đã thích thì phải mê. Xuân Diệu không như Huy Cận, vừa bước vào làng thơ đã được người ta dành ngay cho chỗ ngồi yên ổn. Xuân Diệu đến giữa chúng ta đã ngót năm năm mà những tiếng khen chê chưa ngớt. Người khen, khen hết sức; người chê, chê không tiếc lời”.
Xuân Diệu – một cây bút tài năng với nhiều đóng góp to lớn cho nền văn học Việt Nam, xứng đáng được vinh danh là một nhà thơ lớn và là tấm gương để chúng ta noi theo. Bài học mà Xuân Diệu để lại cho đời chính là tinh thần lao động nghệ thuật cần mẫn, niềm tin yêu tha thiết với con người và sự chân thành với văn chương. Ngày nay, thơ của Xuân Diệu vẫn tiếp tục hấp dẫn và cuốn hút các thế hệ độc giả.